Sự khác biệt giữa PVD và PAD

Sự khác biệt chính - PVD vs PAD
 

PVD (Bệnh mạch máu ngoại biên) là một thuật ngữ rộng được sử dụng để mô tả các bệnh của các mạch máu bên ngoài não và tim. Điều này chủ yếu bao gồm các động mạch lớn và nhỏ, tĩnh mạch, mao mạch và tĩnh mạch lưu thông máu đến và từ các chi trên và dưới, thận và ruột. PVD chủ yếu có thể có hai loại như; PVD hữu cơ và PVD chức năng. Trong PVD hữu cơ, thiệt hại cấu trúc như viêm, tổn thương mô và tắc mạch xảy ra trong khi, trong PVD chức năng, không có thiệt hại cấu trúc như vậy của các mạch máu. TẬP GIẤY (Bệnh động mạch ngoại biên) là một loại PVD hữu cơ. Trong PAD, các mảng xơ vữa động mạch tích tụ trong các thành động mạch, làm tắc nghẽn động mạch và dẫn đến thay đổi lưu lượng máu bình thường. Do đó, điểm khác biệt chính giữa PVD và PAD là PAD là một thuật ngữ rộng đề cập đến một số bệnh liên quan trong khi PAD là một tiểu thể loại của các bệnh mạch máu thuộc danh mục chính, PVD.

NỘI DUNG

1. Tổng quan và sự khác biệt chính
2. PVD là gì 
3. PAD là gì
4. Điểm tương đồng giữa PVD và PAD
5. So sánh cạnh nhau - PVD vs PAD ở dạng bảng
6. Tóm tắt

PVD là gì?

PVD hoặc bệnh mạch máu ngoại biên ngày nay đã trở thành một tình trạng phổ biến và có thể dẫn đến mất chân tay hoặc thậm chí là tính mạng. Về cơ bản, PVD được gây ra bởi giảm tưới máu mô xảy ra do hậu quả của chứng xơ vữa động mạch kèm theo thrombi hoặc thuyên tắc. PVD hiếm khi xuất hiện khởi phát cấp tính nhưng cho thấy sự tiến triển mạn tính của các triệu chứng. Thông thường, PVD không có triệu chứng, nhưng trong các điều kiện như thiếu máu cục bộ chi cấp tính, cần phải can thiệp ngay để giảm tỷ lệ tử vong và bệnh tật.

PVD hoặc xơ vữa động mạch chủ yếu xảy ra do xơ vữa động mạch. Các mảng xơ vữa động mạch, bao gồm một lõi hoại tử trung tâm của các tinh thể cholesterol và nắp xơ của các tế bào cơ trơn và collagen dày đặc có thể phát triển thành các động mạch vừa và lớn. Khi nguồn cung cấp máu cho tứ chi bị cắt đứt do thrombi, thuyên tắc hoặc chấn thương, điều này dẫn đến PVD. Sự hình thành của thrombi thường xảy ra ở các chi dưới so với các chi trên. Các yếu tố như cung lượng tim thấp, phình động mạch, huyết áp thấp, xơ vữa động mạch, ghép động mạch và nhiễm trùng huyết có thể dẫn đến huyết khối.

Hình 01: Biến chứng xơ vữa động mạch

Sự tắc nghẽn đột ngột của các động mạch cũng có thể xảy ra do thuyên tắc. Trường hợp tử vong do thuyên tắc rất cao vì chân tay không có đủ thời gian để phát triển tài sản đảm bảo để bù đắp nguồn cung cấp máu bị tổn thương. Emboli chủ yếu ở tại những nơi phân nhánh động mạch và trong các động mạch có một ống hẹp. Vị trí phổ biến nhất của bifurcation bị chặn bởi thuyên tắc là phân nhánh động mạch đùi. Sự tồn tại của PVD với bệnh động mạch vành cho thấy tăng nguy cơ xơ vữa động mạch.

Các yếu tố nguy cơ chính của PVD là tăng lipid máu, hút thuốc, đái tháo đường và hyperviscosity. Các nguyên nhân khác có thể là viêm mạch máu, tình trạng tự miễn của hệ thống mạch máu, rối loạn đông máu và phẫu thuật.

Lịch sử

Biểu hiện lâm sàng chính của PVD là claudotion không liên tục. Vị trí đau tương quan với vị trí của động mạch bị tắc. Ví dụ, bệnh aortoiliac gây đau ở đùi và mông. Bạn có thể có được manh mối về PVD bằng thuốc của bệnh nhân. Bệnh nhân PVD được quy định cụ thể với pentoxyfyllin. Aspirin thường được sử dụng cho CAD, điều này cho thấy dấu hiệu của PVD.

Triệu chứng

Các dấu hiệu cổ điển của PVD bao gồm 5 P: không nhịp tim, tê liệt, dị cảm, đau và xanh xao.

Thay đổi da như rụng tóc, thay đổi sắc tố mãn tính, móng giòn và da khô, đỏ, có vảy.

PVD kéo dài có thể làm tê liệt, tê liệt và tím tái của tứ chi. Tay chân có thể trở nên lạnh, và hoại thư có thể phát triển. Nên nghi ngờ PVD nếu bệnh nhân bị loét lâu không lành.

Chẩn đoán

Các xét nghiệm máu cơ bản như Công thức máu toàn phần, Nitơ urê máu, Creatinine và nghiên cứu điện giải có thể được thực hiện. Các protein phản ứng D-dimer và C có thể được kiểm tra các dấu hiệu viêm. Các xét nghiệm tiêu chuẩn để kiểm tra tắc nghẽn đường ruột là chụp động mạch, nhưng nó có rủi ro và không có sẵn trong trường hợp khẩn cấp. Dòng chảy qua một tàu có thể được xác định bằng siêu âm Doppler. CT và MRI cũng có thể được thực hiện để đánh giá PVD. Chỉ số đám rối mắt cá chân là một xét nghiệm được sử dụng thường xuyên, so sánh áp lực chi dưới với áp lực chi trên.

Sự quản lý

Thuốc chống tiểu cầu và statin có thể được dùng. Trong trường hợp khẩn cấp, heparin có thể được tiêm tĩnh mạch. Huyết khối động mạch có thể được quản lý trong trường hợp không chảy máu trong.

Can thiệp phẫu thuật là một lựa chọn khác trong điều trị PVD. Ống thông tha thứ có thể được sử dụng để rút phôi. Chụp mạch vành qua da qua da có thể được sử dụng để tái thông mạch động mạch bị hẹp.

PAD là gì?

Trong PAD, sự phát triển của các mảng xơ vữa động mạch xảy ra trong các thành của động mạch chủ yếu ở các chi, ruột và thận. Điều này dẫn đến giảm tưới máu mô. Nếu không được điều trị đúng thời điểm, có thể bị nhiễm vi khuẩn kỵ khí bội nhiễm, và tình trạng này cuối cùng có thể dẫn đến sự hình thành hoại thư. Các mô gangrenous có màu đen, nâu hoặc xanh đậm và chuyển sang khối cứng khô héo theo thời gian. Cơn đau giảm dần với cái chết do thiếu máu cục bộ của người bệnh về đêm và các sợi thần kinh ở vùng bị ảnh hưởng. Cắt cụt thường được thực hiện nếu tình hình đã xấu đi đến mức này.

Hình 02: PAD

Triệu chứng

Các triệu chứng của tưới máu kém ở tứ chi có thể bao gồm nặng, co thắt không liên tục, chuột rút và mệt mỏi. Các triệu chứng giảm tưới máu đến thận bao gồm tăng huyết áp và giảm tưới máu nghiêm trọng có thể gây suy thận.

Chẩn đoán

Tương tự như PVD, PAD cũng có thể được chẩn đoán bằng xét nghiệm đơn giản, ABI (Chỉ số mắt cá chân). Điều tra hữu ích khác bao gồm

  • Siêu âm Doppler
  • Chụp mạch cộng hưởng từ (MRA)
  • Chụp mạch máu CT
  • Quản lý chụp mạch dựa trên ống thông:

Sự quản lý

Sửa đổi lối sống được liệt kê dưới đây đóng vai trò chính trong việc quản lý PAD

  • Ngưng hút thuốc
  • Kiểm soát bệnh tiểu đường đúng cách
  • Ăn một chế độ ăn uống cân bằng với chất béo bão hòa thấp và chất béo chuyển hóa
  • Kiểm soát huyết áp đúng cách
  • Tham gia vào các bài tập thường xuyên

Các loại thuốc được sử dụng trong điều trị PAD bao gồm thuốc chống tiểu cầu, statin và thuốc hạ huyết áp. Cần phải can thiệp phẫu thuật như nong mạch vành và phẫu thuật bắc cầu cho bệnh nhân, những người không thuyên giảm bằng cách điều chỉnh lối sống và thuốc men.

Điểm tương đồng giữa PVD và PAD là gì?

  • Cả hai xảy ra do những thay đổi bệnh lý của thành mạch.
  • Vô cảm, tê liệt, dị cảm, đau và xanh xao có thể được nhìn thấy trong cả hai điều kiện.
  • Có thể được chẩn đoán mắc ABI.
  • Có thể được điều trị bằng statin, thuốc chống tiểu cầu và thuốc chống tăng huyết áp.
  • Sửa đổi lối sống có thể ngăn ngừa sự tiến triển của cả hai bệnh.

Sự khác biệt giữa PVD và PAD là gì?

PVD vs PAD

PVD (bệnh mạch máu ngoại biên) là một thuật ngữ rộng được sử dụng để mô tả các bệnh của các mạch máu bên ngoài não và tim. PAD là một tiểu thể loại của PVD, nơi các mảng xơ vữa động mạch tích tụ trong các thành động mạch, làm tắc nghẽn lòng động mạch và dẫn đến thay đổi lưu lượng máu bình thường.
Vị trí
PVD xảy ra ở cả động mạch và tĩnh mạch. PAD chỉ xảy ra trong các động mạch.

Tóm tắt - PVD vs PAD

Cả PVD (bệnh mạch máu ngoại biên) và PAD ((bệnh động mạch ngoại biên) xảy ra do sự thay đổi bệnh lý của thành mạch. PAD là một tiểu thể loại của PVD. Sự khác biệt chính giữa PVD và PAD là PVD xảy ra ở cả động mạch và tĩnh mạch trong khi PVD PAD, như tên gọi của nó, chỉ xảy ra trong các động mạch.

Tải xuống phiên bản PDF của PVD vs PAD

Bạn có thể tải xuống phiên bản PDF của bài viết này và sử dụng nó cho mục đích ngoại tuyến theo ghi chú trích dẫn. Vui lòng tải xuống phiên bản PDF tại đây Sự khác biệt giữa PVD và PAD.

Tài liệu tham khảo:

1. Kumar, Vinay, Abul K. Abbas, Jon C. Aster và James A. Perkins. Robbins bệnh lý cơ bản. Tái bản lần thứ 9 Philadelphia, PA: Elsevier, 2012. In.
2. Burnand, Kevin G., John Black, Steve Corbett, W. E. G. Thomas và Norman L. Duyệt. Duyệt giới thiệu về các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh phẫu thuật. Tái bản lần thứ 5 Boca Raton, FL: CRC Press, 2014. In.

Hình ảnh lịch sự:

1. Những biến chứng muộn của xơ vữa động mạch Hồi giáo Npatchett - Công việc riêng (CC BY-SA 4.0) qua Commons Wikimedia
2. Bệnh động mạch ngoại biên lâm sàng của Viện Tim và Phổi Tim Quốc gia - (Tên miền công cộng) qua Commons Wikimedia